Phu đường kể chuyện nghề (kỳ 2): Căn bếp ấm giữa công trường cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn

17/10/2025

Đúng giờ. Đúng vị.

Quảng Ngãi, tháng 10/2025.

4 giờ sáng, phía xa nơi công trường rộn những thanh âm đầu ngày của tiếng máy móc. Trời vẫn sẫm màu, dải đèn tuýp ngoài hành lang khu nhà Ban Điều hành gói thầu XL2 dự án cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn hắt xuống nền bê tông loang loáng, không khí mát dịu quyện với mùi đất ẩm đẫm sương đêm.

Khoác chiếc áo mỏng, tôi mở hé cửa bếp cho thoáng, lấy chiếc làn quen thuộc rồi ra cổng dắt xe. Điểm đến đầu ngày sẽ là khu chợ cách đây chừng mười cây số.

Với tôi, cái thú của nghề nấu ăn không chỉ là đứng bếp chế biến, mà là được ra chợ, tự tay lựa thịt thà, cá mú, rau củ tươi ngon. Rau mua ngày nào dùng ngày đó; thịt thà khi nào có giá tốt thì chủ động dự trữ có kiểm soát, phòng khi bão gió hoặc có đoàn khách tới thăm. Cần hải sản, tôi chạy ra chợ Sa Huỳnh, gần cảng để lựa được cá mú tươi hơn.

Đồng hồ điểm 5 rưỡi, tôi cùng các đồng nghiệp bước vào giai đoạn tất bật nhất trong ngày: vừa chuẩn bị hàng trăm suất ăn sáng, vừa lo sơ chế nguyên liệu cho hai bữa chính.

Tới 6 giờ, tất cả suất ăn đã sẵn sàng. Sáng nay, nhà bếp chúng tôi “chiêu đãi” anh chị em món bún cá. Sửa soạn xong bữa sáng rồi, chúng tôi lại chia nhau dọn rửa, ăn điểm tâm rồi bắt tay vào chuẩn bị cơm trưa. Ở công trường, bữa ăn không những phải đủ, mà còn phải đúng: đúng giờ, đúng vị. Đó là bí quyết để giữ nhịp “thi công” trong căn bếp này.

Là người con Quảng Ngãi, khi nghe tin dự án cao tốc đi qua quê hương, tôi liền ứng tuyển vị trí cấp dưỡng. Mình theo nghề bếp, lại được làm tại công trình đi qua quê hương, âu cũng là cái duyên.

Gắn bó với bếp núc hơn 20 năm, từng làm ở nhiều bếp ăn tập thể, đầy đủ dinh dưỡng là ưu tiên số một. Nhưng thú thật điều tôi lo không kém là khẩu vị của từng anh em. Nấu cho gia đình mấy người ăn đã cần lựa, nấu cho hàng trăm người từ khắp vùng miền càng phải khéo. Mỗi người một cách ăn, người làm bếp phải học cách dung hòa.

Cũng như các kỹ sư luôn cần sổ tay ghi chép công việc, tôi luôn giữ bên mình cuốn sổ ghi chép đầu vào, đầu ra nguyên liệu, rồi cả những chi tiết nhỏ cần lưu ý khi nấu nướng. Sau mỗi lần đổi món cũng phải đánh dấu cẩn thận, giờ sổ chi chít dấu đỏ. Thói quen này giúp tôi chủ động xoay vòng, món nào nên xuất hiện cách ngày, món nào giãn nhịp cho đỡ ngán.

Còn nhớ hồi đầu có bữa tôi nấu bánh hỏi, vốn là đặc sản Bình Định, nhiều anh em người Bắc chưa quen nên vừa gắp vừa xem chừng. Tôi phải chỉ cách cuốn bánh, chan mắm. Rồi ai cũng khen lạ mà ngon miệng là mình thấy vui rồi (cười).

Từ đó, nhà bếp đưa nhiều món địa phương vào thực đơn vừa giúp anh em kỹ sư, công nhân đỡ nhớ hương vị quê nhà, vừa là niềm vui riêng để chị em chúng tôi được “thể hiện tay nghề”.

Bếp nóng theo chân thợ làm hầm

Bằng tuổi tôi, chị Lê Thị Quy cũng là người con của miền Trung. Chúng tôi gặp nhau trong căn bếp khu liên cơ dự án rồi nhanh chóng thân thiết. Trước khi làm “chị nuôi Đèo Cả”, đời sống của chị Quy vô cùng bấp bênh. “Ai kêu gì thì mần nấy, chủ yếu là phụ việc bếp núc, dọn dẹp, chẳng nề hà việc chi”, có lần chị thủ thỉ với tôi.

Vào Đèo Cả trước tôi, chị Quy nói cuộc sống chỉ dần ổn định khi bắt đầu theo chân những người thợ làm hầm của Đèo Cả, từ bếp ăn công trường hầm Thung Thi ngoài Thanh Hóa, tới hầm Trường Vinh ở quê nhà Nghệ An, rồi chị lại lặn lội vào nấu ăn cho công nhân đào hầm số 3 ở Quảng Ngãi và nay là căn bếp Ban Điều hành gói XL2 nơi chúng tôi đang làm việc.

Ngày hầm số 3 còn chưa thông, muốn đi chợ chị Quy phải băng qua con đèo dài hơn hai cây số, vốn là đường mòn của người đi rừng. Mùa mưa, sỏi đá lổn nhổn, dốc lên dốc xuống trơn trượt, nguy hiểm khó đi. Sau này mới được mở rộng để làm đường công vụ phục vụ thi công dự án. Có hôm bốn rưỡi sáng lội bộ qua đèo, mưa lớn tạt ngang mặt. Sợ trễ bữa, chị nhờ xe chở hàng về trước, rồi quay lại bộ ngược đèo lấy xe sau.

Vất vả, nhưng ai cũng hiểu còn lao động là còn sống. Mà đời sống công trường nào chỉ dừng ở chuyện bếp núc. Cũng có những niềm vui hết sức giản dị mà mỗi lần nhắc đến đều bồi hồi. Tôi chứng kiến, ngày chị Quy từ Thung Thi vào Trường Vinh, giữa trưa tháng Năm nắng rát, nghe tin chị tiếp tục đi theo đội thợ làm hầm, anh em kỹ sư, công nhân ào ra đón. Hỏi ra thì chỉ đơn giản: “Nhớ cơm chị quá!”. Có lần, từ hầm số 3 về gói XL2 này, có người ra tận ngoài đường chờ đón chị. Xa nhà thì nhớ lắm, nhưng xa bếp công trường cũng da diết không kém, tôi cũng hiểu cảm giác ấy của chị.

Từ khi về đây, chị ít gặp anh em công nhân hơn, vì đây chủ yếu là nơi làm việc của các kỹ sư, cán bộ, nhân viên dự án. Nhưng mỗi khi có ai quen mặt ghé qua, nghe tiếng chị trong bếp là ló vào chào hỏi.

Chị Quy tình cảm lắm, làm việc có trách nhiệm, khéo vun vén, anh em ai cũng quý. Việc đã đến tay chị nhận là đâu cũng vào đấy.

Yêu bếp công trường

Một điểm đặc biệt ở căn bếp khu liên cơ của chúng tôi là khoảng cách tuổi tác giữa các chị em cấp dưỡng. Tôi và chị Quy thuộc thế hệ 6X, hai người còn lại là Trần Thị Huyền Vy và Lý Thị Thu Quyên đều sinh sau năm 2000. Nhưng điều này không hề ngăn trở sự gắn kết giữa chúng tôi.

Hơn hai năm gắn bó với bếp ăn Đèo Cả, Vy từng đứng bếp ở dự án cao tốc Cam Lâm – Vĩnh Hảo, rồi tiếp tục theo chân các công nhân ra Quảng Ngãi – Hoài Nhơn. Có thời gian Vy làm ở hầm số 3. Việc quán xuyến gần 400 suất ăn mỗi bữa với bà mẹ hai con như Vy chẳng nhằm nhò gì. Giờ về khu liên cơ, công việc có phần “gọn” hơn, nhưng cô bé này vẫn giữ thói quen lắng nghe. Nghe thời tiết, nghe nhịp sinh hoạt, nghe “tiếng nói” của tập thể.

Còn Quyên vào Tập đoàn sau, cũng được hai năm rồi. Từ lao động phổ thông, em chuyển sang công việc ở khu công trường hầm 1 dự án Quảng Ngãi – Hoài Nhơn, tham gia việc bếp núc. Trước đó, Quyên cũng lăn lộn với nhiều nhà hàng. “Phải yêu nấu nướng lắm thì mới theo được nghề này”, bé Quyên hay bảo vậy.

Nhà Quyên cách công trường hơn 500 cây số, tận sâu trong An Khê (Gia Lai), cả năm mới về được đôi ba lần. Có lần được hỏi nhớ nhà không, cô bé này cười: “Có chứ, nhưng ở bếp có mọi người, nên em không cô đơn”. Mà cũng đúng thật, bốn người một bếp, bên nhau cả ngày, thương nhau lắm.

Những ngày đón đoàn khách vào thăm dự án, bếp có khi lên đến mười mấy, hai chục bàn. Cả bốn người chạy như con thoi. Cuối bữa, nhìn mâm bát sạch veo, chúng tôi mới yên tâm ngồi xuống, chia nhau bát cơm nóng, kể dăm ba câu chuyện.

8 giờ tối, khi những mâm cơm cuối cùng được thu dọn tinh tươm, chúng tôi mới tạm khép lại công việc trong ngày. Nơi căn phòng chừng 20m² với hai giường tầng, Quyên và Vy tranh thủ gọi điện về cho con. Chị Quy lúc này đang mở điện thoại xem tin tức. Còn tôi xếp chiếc bàn gấp, xem lại thực đơn để ghi chép nguyên liệu cho ngày hôm sau, trước khi gập cuốn sổ quen thuộc lại và ngồi chia sẻ vài chuyện thường nhật này với các bạn truyền thông Tập đoàn.

Ở Đèo Cả, sự quan tâm dành cho người lao động, nhất là chị em phụ nữ luôn hiện hữu. Ngày đầu đến công trường tôi và gia đình tưởng ở trong lán trại tạm bợ, vào rồi mới thấy tiện nghi chỉn chu, thành ra mình an tâm làm việc. Lãnh đạo cũng thường xuyên xuống bếp, động viên. Có người quan tâm bếp núc, chị em đỡ tủi, công việc trôi chảy hơn. Ngày 8/3, 20/10 năm nào cũng được các anh em tổ chức chúc mừng đông vui lắm.

Nhờ vậy, chúng tôi thêm động lực gắn bó, dành năng lượng cho những bữa cơm dự án. Hôm nào trái gió trở trời, người này đỡ người kia. Ai cần về thăm nhà thì cả bếp san sẻ thời gian. Tối cuối tuần thư thả, lại rủ nhau đi la cà, hàn huyên.

Nếu hỏi vì sao gắn bó với màu áo xanh “chị nuôi Đèo Cả”, mỗi người chúng tôi sẽ có một lý do riêng chứ, nhưng gom lại đều là mong một công việc ổn định đảm bảo thu nhập trang trải cho cuộc sống, được làm trong môi trường chuyên nghiệp, được tạo điều kiện để bản thân được đóng góp giá trị cho tổ chức. Cũng ít ai biết rằng, có nhiều niềm vui nhỏ xíu mà ai ghé qua bếp sẽ “lây” ngay: một món mới vừa miệng anh chị em, hay những chiều rỗi việc ngồi tâm sự trong không gian thơm mùi cơm chín,… Đơn giản mà chân tình để người gần người hơn.

Câu chuyện của chúng tôi có lẽ chỉ là một lát cắt trên tấm bản đồ công trường trải dài của Tập đoàn Đèo Cả. Từ Bắc vào Nam, ở đâu cũng có những căn bếp nhỏ ấm cúng, nơi tình yêu thương gói trong suất cơm mang ra công trường, trong bát cơm ủ kỹ để phần người về muộn, trong lời dặn các anh em “cố nốt chút việc” mà vào mâm muộn rằng: “ăn nhanh cho nóng”. Ai có dịp ghé thăm dự án, xin mời rẽ vào bếp chúng tôi, nếm vị cơm nhà và cảm nhận hơi ấm của tình người nơi công trường nhé.

Nguyễn Thị Ngọc Lan - Cán bộ cấp dưỡng

Ban Điều hành gói thầu XL2 dự án cao tốc Quảng Ngãi - Hoải Nhơn

Bích Liên (ghi)